Sáng 16/9, tại Nhà Quốc hội, Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Tổng Bí thư Tô Lâm dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị.
Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị sáng 16/9.
Thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương Đảng,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị tại các điểm cầu,
Hôm nay, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị toàn quốc để quán triệt và triển khai thực hiện 04 nghị quyết hết sức quan trọng của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 70 về Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71 về Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72 về Một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong đó Nghị quyết 59 là một trong bốn Nghị quyết trụ cột đã đề cập trong buổi triển khai các Nghị quyết của Bộ chính trị vào ngày 18/05/2025. Ba nghị quyết còn lại là 3 Nghị quyết chuyên đề. Ba nghị quyết này tiếp nối và bổ sung mạnh mẽ cho “Bộ tứ Nghị quyết” chiến lược, tạo nên một chỉnh thể thống nhất, mũi đột phá để hiện thực hóa hai mục tiêu 100 năm, xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, trường tồn và bền vững.
Hội nghị đã được nghe đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; đồng chí Lê Thành Long, Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương truyền đạt những nội dung cốt lõi của 4 Nghị quyết. Tôi đánh giá cao nội dung báo cáo và đề xuất triển khai thực hiện của các đồng chí vừa nêu.
Tôi cho rằng: Tinh thần xuyên suốt của Nghị quyết 59 và Ba nghị quyết 70-71-72 là chuyển nhanh từ “ban hành chủ trương” sang “quản trị thực thi”, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm biến nội dung các Nghị quyết thành công việc hằng ngày, thành chương trình hành động cụ thể, có nguồn lực, có thời hạn, có chỉ số đo lường, có giám sát và giải trình.
Tôi đề nghị toàn hệ thống chính trị quán triệt và thực hiện nghiêm một số nguyên tắc trong quá trình triển khai các Nghị quyết này, đó là: 5 nhất quán (chính trị-pháp lý-dữ liệu- phân bổ nguồn lực -truyền thông); 3 công khai (mục tiêu- tiến độ- kết quả); 3 sớm (sớm hoàn thiện thể chế- sớm khởi động dự án trọng điểm- sớm bố trí vốn) và 5 rõ (rõ việc, rõ người, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả) và triển khai ngay các nội dung Nghị quyết trong thời gian sớm nhất ở tất cả các cấp.
Để bảo đảm chỉ đạo thống nhất, điều phối nhịp nhàng và “đến được cơ sở”, cần thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương đối với từng Nghị quyết hoặc Ban chỉ đạo Trung ương về việc triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị (vấn đề này các đồng chí tính toán thêm). Bên cạnh đó, cần xây dựng “bảng điều khiển số” công khai, cập nhật theo tuần và theo tháng, theo dõi các chỉ số cốt lõi, các nút thắt, tiến độ thực hiện của từng Nghị quyết. Trách nhiệm của Chính phủ, Bộ, Ngành, Địa phương và của nhân dân. Đồng thời, có thể mời các nhóm chuyên gia độc lập, bộ phận giám định chính sách tham gia thẩm định giải pháp, đánh giá, phản biện khách quan.
Tôi cũng xin nhấn mạnh một số định hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của từng Nghị quyết, đồng thời làm rõ mối liên hệ biện chứng, bổ trợ lẫn nhau giữa các Nghị quyết được triển khai hôm nay.
Đối với Nghị quyết 59:
(1) Xác định rất rõ hội nhập quốc tế là động lực chiến lược trên cơ sở nội lực có vai trò quyết định, gia tăng nội lực đi đôi với tranh thủ ngoại lực, gắn kết chặt chẽ hội nhập với bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Bảo đảm các nguyên tắc về tâm thế, vị thế mới, tư duy và cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế, chuyển từ tư duy tiếp nhận sang tư duy đóng góp, từ hội nhập chung sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới.
(2) Hội nhập đồng bộ, toàn diện, sâu rộng. Các lĩnh vực hội nhập phải gắn kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong một chiến lược tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc với lộ trình và bước đi phù hợp.
Trong đó, hội nhập kinh tế được xác định là trung tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế với ưu tiên hàng đầu là cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số.
Hội nhập về chính trị, an ninh, quốc phòng phải hướng tới mục tiêu nâng cao tiềm lực, vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải được xác định là đột phá quan trọng hàng đầu, hướng tới việc đưa các chuẩn mực, quy định về khoa học, công nghệ trong nước tiệm cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến.
Đẩy mạnh hội nhập toàn diện về văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục-đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác, nhằm phát huy, quảng bá văn hóa dân tộc, tăng cường hợp tác về nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đổi mới, nâng tầm chất lượng giáo dục trong nước ngang tầm khu vực và quốc tế, phát triển con người Việt Nam sánh vai cùng bạn bè quốc tế cả về trí tuệ và thể chất.
(3) Nâng cao năng lực thực thi và hoàn thiện thể chế, chính sách, khắc phục điểm nghẽn về thực thi cam kết, thỏa thuận quốc tế, đẩy mạnh rà soát, nội luật hoá pháp luật quốc tế để thực hiện đầy đủ, đồng bộ và hiệu quả các nghĩa vụ, cam kết của ta. Tận dụng hiệu quả các cam kết, thỏa thuận, liên kết kinh tế quốc tế, nhất là các FTA thế hệ mới để tăng cường đan xen lợi ích, không phụ thuộc vào một số ít đối tác. Khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt nâng cao hiệu quả của hội nhập quốc tế, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 tới đây.
(4) Đẩy mạnh thu hút FDI chất lượng cao, nhất là các tập đoàn lớn toàn cầu, có vai trò dẫn dắt một số chuỗi cung ứng quan trọng như công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo...; ưu tiên các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có tác động lan toả, các khu công nghiệp sinh thái - thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo, logistics, các dự án cơ sở hạ tầng chiến lược, trong đó có hạ tầng giao thông. Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh có hiệu quả ở nước ngoài, xây dựng các thương hiệu quốc gia mang tầm quốc tế.
(5) Phát huy vai trò trung tâm, sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của cả người dân, doanh nghiệp, địa phương trong gắn kết hội nhập quốc tế và hội nhập trong nước, kết nối giữa các vùng, miền, địa phương, kết nối giữa các ngành, lĩnh vực, kết nối giữa nghiên cứu và triển khai, góp phần cụ thể trong củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên bản đồ thế giới.